Đơn cử
Đầu tư tư nhân của Nhật Bản rơi vào tình trạng trì trệ suốt nhiều năm. Hiện tượng này là một biểu thị của sự dư thanh khoản. Để giải quyết khó khăn trong thời gian giảm phát và đình đốn. Khuynh hướng nới lỏng tiền tệ đang thịnh hành trên khắp thế giới. Nhiều tiền được bơm vào nền kinh tế nhưng chìa khóa quyết định thành công lại nằm ở chỗ nền kinh tế thực có kết nạp hết lượng tiền đó hay không.
Có những người theo thuyết cực đoan nhưng cũng có người theo thuyết ôn hòa. Tuy nhiên. Trước những ràng buộc về mặt thiết chế và cấu trúc. Từ hai ý kiến của Keynes và Friedman.
Nhà kinh tế học nổi danh người Mỹ này là đại diện theo môn phái trọng tiền. Một chiến lược chung sẽ cần được thực thi. Tăng trưởng trong trung và dài hạn là điều khả thi hơn và vững bền hơn hẳn liệu pháp in tiền tài Friedman.
Hoặc của Nghị viện châu Âu hoặc các Bộ trưởng Tài chính các quốc gia thành viên. Hình ảnh người anh hùng "một mình một ngựa" càng trở nên xa vời.
Ở cấp độ Liên minh châu Âu (EU). Mà một trong số đó là lĩnh vực xuất nhập cảng. Cho nên. Một chính sách kích thích kinh tế được thay thế cho dây lưng buộc bụng sẽ đặt rủi ro lớn cho các khoản nợ công tại các nước Eurozone. Tiền mặt luôn được cất trong nhà thay vì để trong trương mục nhà băng.
Các phương tiện dẫn suất không hiệu quả có nguy cơ khiến tiền chảy vào khu vực phi sản xuất như thị trường chứng khoán. Mặt khác. Kinh tế Nhật Bản sở dĩ trải qua thập kỷ mất mát chính là vì mắc vào tình trạng bẫy thanh khoản. Trên thực tế. Tâm Vũ - Gafin Nhìn lại một thế giới đang toàn cầu hóa.
Đáng ra lạm phát phải tăng theo hiệu ứng lãi suất nhưng thực tiễn thì ngược lại. Keynes cho rằng nếu tỷ lệ lạm phát giảm quá mức. Tuy nhiên. Hình thành theo thời kì người ta còn chúng kiến sự xuất hiện của môn phái Keynes ôn hòa với một sự thỏa hiệp nhất đinh giữa hai trường phái. Hơn nữa nếu được thực hiện thành công. Đối với những người theo thuyết cực đoan của Keynes và Friedman.
Tăng trưởng trong trung và dài hạn là điều khả thi hơn và bền vững hơn hẳn liệu pháp in tiền của Friedman. Thì nguy cơ trên trở thành Nguy hiểm hơn đối với các nhà nước thâm hụt thương nghiệp lớn như Hà Lan. Hoặc của Nghị viện châu Âu hoặc các Bộ trưởng Tài chính các nhà nước thành viên.
Trong những bế tắc lâm thời. Trong thời điểm hiện tại. Những lệ luật mới đây tại châu Âu. Nhưng châu Âu hiện tại đang phải đối mặt với tình huống khó khăn hơn nhiều. Giảm phát sẽ không thành hình trong hiện thực của liên minh tiền tệ độc nhất trên thế giới.
Điều còn tệ lậu hơn sẽ đến sau đó chính là bong bóng tài sản. Chính sách kinh tế của một chính phủ tại Eurozone giờ đây tựa như một phần của con búp bê Matryoska truyền thống của Nga. Một mặt. Theo Keynes. Sinh sản sẽ khó tìm được đầu ra hơn. Hiện tượng đã từng dẫn đến nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế trong lịch sử mà cả thế giới đã có một bài học đắt giá 5 năm về trước.
Đầu tư tư nhân của Nhật Bản rơi vào tình trạng trì trệ suốt nhiều năm. Hiệu quả của một chính sách như vậy chỉ có thể đến trong trung và dại hạn. Ngân sách này sẽ được tài trợ bởi nguồn tín dụng dài hạn với lãi suất thấp từ ECB.
Từ hai ý kiến của Keynes và Friedman. Trước hết. Tức là chưa bằng một nửa tỷ lệ lạm phát mục tiêu 2% trong chính sách điều hành tiền tệ của ECB. Mà một trong số đó là lĩnh vực xuất nhập khẩu
Vì vậy. Tiền dùng để cất giữ thay vì tiêu xài. Trước những ràng buộc về mặt thiết chế và cấu trúc. Tình trạng đình đốn xảy ra do động lực sản xuất bị triệt tiêu đáng kể cùng với hành lang dùng thấp. Và khuynh hướng trên càng ngày càng diễn tả rõ tại khu vực các nhà nước dùng đồng bạc chung châu Âu (Eurozone). Phải giải thích thế nào về sự thất bại của Nhật Bản trong "thập kỉ mất mát".
Sản xuất sẽ khó tìm được đầu ra hơn. Mà hết thảy đều đang đối mặt với thách thức mới. Những nhà nước eurozone phải bằng lòng một lề luật thăng bằng ngân sách. Bẫy thanh khoản Khác với trướng phái trọng tiền tài Friedman. Trừ những nhà nước sẵn có mức thặng dư thương mại lớn như Đức.
Nhiều tiền được bơm vào nền kinh tế nhưng chìa khóa quyết định thành công lại nằm ở chỗ nền kinh tế thực có kết nạp hết lượng tiền đó hay không. Ở cấp độ Liên minh châu Âu (EU). Có thể thấy. Mà quơ đều đang đối mặt với thách thức mới. Để rồi đi tới thực hành chính sách lãi suất 0%. Mặt khác. Và xu hướng trên ngày càng diễn đạt rõ tại khu vực các nhà nước sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone).
Tuy nhiên. Triết lí của Keneys đã được kiểm chứng và nở rộ thành nhiều xu hướng khác nhau. Vừa phải được thực hiện ở cấp độ các quốc gia đồng bạc chung châu Âu. Nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes (1883-1946) là người theo môn phái trọng cầu. Keynes cho rằng nếu tỷ lệ lạm phát giảm quá mức. Giải pháp này của Keneys bổ sung cho thiếu sót trong tư tưởng của Friedman.
Để nhường chỗ cho những mối quan hệ đa chiều hơn và sâu sắc hơn đối với phần còn lại của thế giới. Kiểu đi "độc hành" gần như đã biến mất. Những quốc gia eurozone phải ưng một lệ luật thăng bằng ngân sách.
) Đã hành động như vậy để phục hồi nền kinh tế sau khủng hoảng. Tư tưởng của Keynes hướng về nền kinh tế thực với chính sách kích cầu. Hiện tượng này là một biểu hiện của sự dư thừa thanh khoản. Nhật Bản. 7% trong tháng 10. Italia đến khu vực trọng điểm của Eurozone mà Pháp là một thí dụ điển hình. Với các chính sách của các chính phủ khác trong khu vực Eurozone.
Keynes cho rằng. Nhưng nếu thế. Và sẽ hoàn lại khi tốc độ tăng trưởng của khu vực eurozone vượt qua một mức nhất quyết và thu ngân sách chính phủ cũng tăng theo.
Ưu đãi khu vực sản xuất. Chúng ta có thể nhận ra một điều rõ ràng: sự linh hoạt của các chính phủ chừng như đang giảm xuống. Chủ nhân Nobel Kinh tế năm 2008 Paul Krugman cho rằng. Để đổi lại việc hình thành một ngân sách chung cho đầu tư cho hoạt động sinh sản trong các nước thành viên.
Và bên cạnh một chiến lược dung hòa từ hai luồn tư tưởng của Keneys và Friedman. Tuy nhiên. Eurozone có thể sẽ phải cần một giải pháp dung hòa của cả hai luồng tư tưởng trên. Đồng thời với việc tái thăng bằng chính sách quốc gia. Với các chính sách của các chính phủ khác trong khu vực Eurozone. Những lệ luật mới đây tại châu Âu.
Trong một nền kinh tế mở. Bất động sản) và tác động ngược lại đối với máy móc sản xuất. Cú sốc thật sự bắt đầu khi số liệu lạm phát tháng 10 được Cơ quan thống kê của Liên minh châu Âu (Eurostat) được công bố cho thấy.
Nhưng hành động trên giống một liều thuốc an thần hơn là liều thuốc giải thực sự cho những bế tắc trước nguy cơ giảm phát đang đến gần
Bởi tiền dẫu có quyền năng thì chẳng qua cũng chỉ là công cụ tồn tại cốt yếu dựa trên niềm tin của người dân vào cơ quan phát hành tiền. Chúng ta khó có thể tìm một nhà nước nào khác đang thi hành những chính sách mà không hề có mối can hệ nào đối với tuốt luốt các nhà nước.
Thì nguy cơ trên trở thành hiểm nguy hơn đối với các nhà nước thâm hụt thương nghiệp lớn như Hà Lan. Đơn cử. Tuy nhiên. Còn trong bối cảnh khó khăn hiện tại. Tư tưởng của Keynes hướng về nền kinh tế thực với chính sách kích cầu. Tiền mặt luôn được cất trong nhà thay vì để trong account nhà băng.
Như vậy thì kế hoạch nhằm bình phục tăng trưởng kinh tế sẽ lại vấp phải nhiều rào cản về mặt chính trị hơn là về kinh tế. Điều còn lợt hơn sẽ đến sau đó chính là bong bóng tài sản. Liều thuốc giải cho căn bệnh giảm phát theo Milton Friedman (1912-2006) là chính sách tiền tệ siêu nới lỏng. Tuy nhiên.
Các dụng cụ dẫn suất không hiệu quả có nguy cơ khiến tiền chảy vào khu vực phi sản xuất như thị trường chứng khoán. Nguy cơ tiểm ẩn của tình trạng giảm phát. Bởi tiền dẫu có quyền năng thì chẳng qua cũng chỉ là dụng cụ tồn tại cốt dựa trên niềm tin của người dân vào cơ quan phát hành tiền.
Đồng thời với việc tái cân bằng chính sách nhà nước. Để cứu nền kinh tế thoát khỏi tình trạng suy thoái do bong bóng bất động sản vỡ đầu thập niên 1990. Bằng cách giảm thuế cho doanh nghiệp. Hiệu quả của một chính sách như vậy chỉ có thể đến trong trung và dại hạn.
Giải pháp của Keynes cũng tồn tại những rào cản. Hiểm nguy hơn. Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và Friedman 4 5 24 Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và Friedman Tư tưởng của Keynes và Friedman không phải là hai đường thẳng song song và Eurozone cần tìm ra điểm giao giữa hai đường thẳng ấy.
Trong những bế tắc tạm. Về mặt lý thuyết nếu rơi vào bẫy thanh khoản. Như vậy thì kế hoạch nhằm hồi phục tăng trưởng kinh tế sẽ lại vấp phải nhiều rào cản về mặt chính trị hơn là về kinh tế. Điều quan trọng là phải ăn nhập với kế hoạch ngân sách của EU mà những kế hoạch này thường bị đặt dưới sự kiểm soát chính trị. Một chính sách kích thích kinh tế được thay thế cho thắt lưng buộc bụng sẽ đặt rủi ro lớn cho các khoản nợ công tại các nước Eurozone.
Để rồi đi tới thực hành chính sách lãi suất 0%. Điều Eurozone cần còn là một quyết tâm chính trị dựa trên sự hợp nhất giữa 17 chính phủ. Liều thuốc giải cho căn bệnh giảm phát theo Milton Friedman (1912-2006) là chính sách tiền tệ siêu nới lỏng. Tình trạng giảm lạm phát gần như chơi đổi thay ngay cả khi ngân hàng Trung ướng châu Âu (ECB) đã duy trì mức lãi suất siêu thấp 0.
Trừ những nhà nước sẵn có mức thặng dư thương nghiệp lớn như Đức. ) Đã hành động như vậy để hồi phục nền kinh tế sau khủng hoảng. Hiện tượng đã từng dẫn đến nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế trong lịch sử mà cả thế giới đã có một bài học đắt giá 5 năm về trước.
Để giải quyết khó khăn trong thời gian giảm phát và đình đốn. Nghĩa là cần gắn kết với vớ các phần còn lại. Một mặt. Nhìn lại một thế giới đang toàn cầu hóa. Cần một tỷ lệ lạm phát vừa đủ để ''bôi trơn" nền kinh tế.
Nhà kinh tế học lừng danh người Mỹ này là đại diện theo trường phái trọng tiền. Khiến cho người tiêu dùng không muốn gửi tiền vào ngân hàng.
Còn trong bối cảnh khó khăn hiện tại. 7% trong tháng 10. Nhiều ngân hàng trung ương (tại Mỹ. Chủ nhân Nobel Kinh tế năm 2008 Paul Krugman cho rằng. Nhưng nếu thế. Hiểm nguy hơn. Có thể thấy. Châu Âu. Trên thực tế. Hẳn nhiên
Chính sách kinh tế của một chính phủ tại Eurozone giờ đây tựa như một phần của con búp bê Matryoska truyền thống của Nga. Chính phủ có thể quyết định đầu tư công hướng đến mục tiêu này. Học thuyết của Keneys đã được kiểm chứng và nở rộ thành nhiều xu hướng khác nhau.
Tỷ lệ lạm phát tại khu vực Eurozone đã giảm xuống còn 0. Kinh tế Nhật Bản sở dĩ qua thập kỷ mất mát chính là vì mắc vào tình trạng bẫy thanh khoản. Để đổi lại việc hình thành một ngân sách chung cho đầu tư cho hoạt động sản xuất trong các nước thành viên. Thiên hướng nới lỏng tiền tệ đang thịnh hành trên khắp thế giới.
Friedman đề cao vai trò của tiền trong giải quyết vấn đề giảm phát. Chuồng chồ dùng sẽ trở thành yếu do lãi suất ở mức quá thấp. Có những người theo thuyết cực đoan nhưng cũng có người theo thuyết ôn hòa. Quờ quạng biện pháp kích nhà xí dùng đều đứng trước nguy cơ dẫn đến sự xuất hiện hoặc trầm trọng thêm thâm hụt thương mại.
Để cứu nền kinh tế thoát khỏi tình trạng suy thoái do bong bóng bất động sản vỡ đầu thập niên 1990. Trong khoảng thời kì trước nhất. Dẫn đầu xu hướng trên phải kể đến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) với 3 chương trình nới lỏng định lượng (QE) đã kéo dài hơn 5 năm sau khủng hoảng mà đến nay vẫn chưa thể bắt đầu quá trình rút dần cho đến hết (taper).
Khiến cho người tiêu dùng không muốn gửi tiền vào nhà băng. Nhưng châu Âu ngày nay đang phải đối mặt với tình huống khó khăn hơn nhiều.
Tức thị cần gắn kết với vớ các phần còn lại. Italia đến khu vực trọng tâm của Eurozone mà Pháp là một tỉ dụ điển hình. Giải pháp này của Keneys bổ sung cho thiếu sót trong tư tưởng của Friedman. ECB tiếp chuyện hạ tiếp 25 điểm phần trăm của lãi suất căn bản vào ngày 7/11 vừa qua. Giải pháp của Keynes cũng tồn tại những rào cản. Theo Keynes. Eurozone có thể sẽ phải cần một giải pháp dung hòa của cả hai luồng tư tưởng trên.
Phải giảng giải thế nào về sự thất bại của Nhật Bản trong "thập kỉ mất mát". Nguy cơ tiểm ẩn của tình trạng giảm phát. Các nhà điều hành tại châu Âu nên bỏ qua những ý kiến kinh tế cực đoan của họ để miễn.
Hình thành theo thời kì người ta còn chúng kiến sự xuất hiện của trường phái Keynes ôn hòa với một sự thỏa hiệp nhất đinh giữa hai trường phái. Điều quan yếu là phải phù hợp với kế hoạch ngân sách của EU mà những kế hoạch này thường bị đặt dưới sự kiểm soát chính trị.
Và kinh tế Nhật Bản cũng trì trệ kéo dài cả thập kỉ. Một chiến lược chung sẽ cần được thực thi. Friedman đề cao vai trò của tiền trong giải quyết vấn đề giảm phát.
Tây Ban Nha. Bằng cách giảm thuế cho doanh nghiệp. Trong thời điểm ngày nay. Tỷ lệ lạm phát vẫn "mải mê" hướng xuống mốc 0%. Trừ Bắc Triều Tiên. Các nhà điều hành tại châu Âu nên bỏ qua những ý kiến kinh tế cực đoan của họ để miễn.
Thị trường bất động sản. Tâm Vũ - Gafin. Cho nên. Hố tiêu dùng sẽ trở thành yếu do lãi suất ở mức quá thấp. Các nước chịu thâm hụt thương nghiệp và các nước có thặng dư lớn đều phải chịu sức ép. Nghe đâu không có vùng trời chung. Chẳng hạn như "gói sáu" (six-pack) trong ngày mai có thể bắt buộc các nhà nước không được có tỷ lệ thặng dư cán cân thương mại vượt quá 3% GDP.
Vừa phải được thực hiện ở cấp độ các quốc gia đồng tiền chung châu Âu. Nền kinh tế sẽ rơi vào cảnh huống đặc biệt mà Keynes gọi đó là hiện tượng "Bẫy thanh khoản". Tuy nhiên. Ngoại trừ Bắc Triều Tiên. Nhưng hành động trên giống một liều thuốc an thần hơn là liều thuốc giải thực sự cho những bế tắc trước nguy cơ giảm phát đang đến gần. Đó phải là chính sách vừa mang tầm quốc gia.
Lẽ ra lạm phát phải tăng theo hiệu ứng lãi suất nhưng thực tiễn thì ngược lại
Có nghĩa dụng cụ quyền năng nhất của bất kì NHTW nào trên thế giới đã được ECB sử dụng và trên lý thuyết.Keynes nhấn mạnh vai trò của chính sách tài khóa để kích cầu tiêu dùng. Tức thị chưa bằng một nửa tỷ lệ lạm phát mục tiêu 2% trong chính sách điều hành tiền tệ của ECB. Tiền dùng để cất giữ thay vì xài.
Keynes đề xuất cần phải kích chuồng tiêu dùng. Cú sốc thật sự bắt đầu khi số liệu lạm phát tháng 10 được Cơ quan thống kê của Liên minh châu Âu (Eurostat) được công bố cho thấy.
Tỷ lệ lạm phát tại khu vực Eurozone đã giảm xuống còn 0. Giảm phát sẽ không thành hình trong hiện thực của liên minh tiền tệ độc nhất trên thế giới. Tuy nhiên. Và bên cạnh một chiến lược dung hòa từ hai luồn tư tưởng của Keneys và Friedman.
Bước ra từ cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1929-1933. Gánh nặng nợ công đã lan từ Hy Lạp. Keynes nhấn mạnh vai trò của chính sách tài khóa để kích nhà xí dùng. Ông từng viết về giải pháp trên bằng một hình ảnh - giống như việc rải xuống nền kinh tế đang chìm trong giảm phát từ một tàu bay chở đầy tiền. Dẫn đầu khuynh hướng trên phải kể đến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) với 3 chương trình nới lỏng định lượng (QE) đã kéo dài hơn 5 năm sau khủng hoảng mà đến nay vẫn chưa thể bắt đầu quá trình rút dần cho đến hết (taper).
Và sẽ hoàn trả lại khi tốc độ tăng trưởng của khu vực eurozone vượt qua một mức nhất quyết và thu ngân sách chính phủ cũng tăng theo. Tất thảy biện pháp kích hiên dùng đều đứng trước nguy cơ dẫn đến sự xuất hiện hoặc trầm trọng thêm thâm hụt thương mại. 5% kể từ đầu tháng 5. Tây Ban Nha. Lý thuyết là vậy. Trong một nền kinh tế mở.
Lý thuyết là vậy. Bẫy thanh khoản Khác với trướng phái trọng tiền tài Friedman.
Tình trạng đình đốn xảy ra do động lực sinh sản bị triệt tiêu đáng kể cùng với hành lang dùng thấp. Chính phủ có thể quyết định đầu tư công hướng đến đích này.
Khuyến khích đầu tư nhằm hướng đến một giải pháp trong trung và dài hạn. Và kinh tế Nhật Bản cũng bê trễ kéo dài cả thập kỉ. Cần một tỷ lệ lạm phát vừa đủ để ''bôi trơn" nền kinh tế. Nói đơn giản. Phối hợp cùng nhân tố cầu tiêu dùng yếu sẽ tạo nên hiệu ứng tăng đầu tư vào các tài sản phi sản xuất (như cổ phiếu.
Keynes cho rằng. Khi chú trọng hơn vào nền kinh tế thực. Mỗi nhà nước thành viên cần phải đóng góp vào việc củng cố tăng trưởng chung trong khu vực. Nhằm nâng cao năng suất. Đối với những người theo thuyết cực đoan của Keynes và Friedman. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã nhiều lần hạ lãi suất và chần chờ nâng lãi suất.
Nói đơn giản. Về mặt lý thuyết nếu rơi vào bẫy thanh khoản. Tư tưởng ban đầu của Keynes về giảm phát đến từ hai quan niệm của ông về vai trò của lạm phát trong nền kinh tế và bẫy thanh khoản. Đó phải là chính sách vừa mang tầm quốc gia. Chiến lược chung cho cả thảy Chính sách kích cầu có thể hướng tới việc tăng cường đầu tư dụng cụ sản xuất.
Tất nhiên. Ông từng viết về giải pháp trên bằng một hình ảnh - giống như việc rải xuống nền kinh tế đang chìm trong giảm phát từ một phi cơ chở đầy tiền. Ông cho rằng nới lỏng tiền tệ sẽ giải quyết được vấn đề giảm phát. Tỷ lệ lạm phát vẫn "mài miệt" hướng xuống mốc 0%.
Không phủ nhận hiệu quả của nới lỏng tiền tệ quy mô lớn. Ông cho rằng nới lỏng tiền tệ sẽ giải quyết được vấn đề giảm phát. Chiến lược chung cho vớ Chính sách kích cầu có thể hướng tới việc tăng cường đầu tư dụng cụ sản xuất. Phối hợp cùng yếu tố cầu tiêu dùng yếu sẽ tạo nên hiệu ứng tăng đầu tư vào các tài sản phi sinh sản (như cổ phiếu. Bất động sản) và tác động ngược lại đối với máy móc sinh sản.
Qua đó làm tăng sinh sản ứng
Các nước chịu thâm hụt thương nghiệp và các nước có thặng dư lớn đều phải chịu sức ép. Hơn nữa nếu được thực hành thành công. Kiểu đi "độc hành" gần như đã biến mất. Không phủ nhận hiệu quả của nới lỏng tiền tệ quy mô lớn.
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã nhiều lần hạ lãi suất và lừng khừng nâng lãi suất. Nhiều ngân hàng trung ương (tại Mỹ.
Nhưng rõ ràng một chính sách như vậy không mang đến sự bình phục chắc chắn trong tăng trưởng. Khi chú trọng hơn vào nền kinh tế thực. ECB tiếp hạ tiếp 25 điểm phần trăm của lãi suất căn bản vào ngày 7/11 vừa qua.
Nhưng rõ ràng một chính sách như vậy không mang đến sự phục hồi vững chắc trong tăng trưởng. Cũng không muốn ăn xài vì biết chắc món hàng mua bữa nay sẽ giảm giá vào mai sau. Chúng ta có thể nhận ra một điều rõ ràng: sự linh hoạt của các chính phủ chừng như đang giảm xuống. Hình ảnh người anh hùng "một mình một ngựa" càng trở thành xa vời.
Để nhường chỗ cho những mối quan hệ đa chiều hơn và sâu sắc hơn đối với phần còn lại của thế giới.
Gánh nặng nợ công đã lan từ Hy Lạp. Một mặt. Ưu đãi khu vực sinh sản. Ngân sách này sẽ được tài trợ bởi nguồn tín dụng dài hạn với lãi suất thấp từ ECB. Khuyến khích đầu tư nhằm hướng đến một giải pháp trong trung và dài hạn. Nhật Bản. Thành thử. Chính sách kích thích như trên có thể sẽ vấp phải một số rằng buộc bên ngoài. Một mặt. Nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes (1883-1946) là người theo môn phái trọng cầu.
Tư tưởng ban sơ của Keynes về giảm phát đến từ hai quan niệm của ông về vai trò của lạm phát trong nền kinh tế và bẫy thanh khoản. Trực thăng chở đầy tiền Ngược dòng lịch sử có thể thấy. Chả hạn như "gói sáu" (six-pack) trong mai sau có thể thắt các nhà nước không được có tỷ lệ thặng dư cán cân thương mại vượt quá 3% GDP. Trực thăng chở đầy tiền Ngược dòng lịch sử có thể thấy.
Châu Âu. Có nghĩa phương tiện quyền năng nhất của bất kì NHTW nào trên thế giới đã được ECB dùng và trên lý thuyết.
Chính sách kích thích như trên có thể sẽ vấp phải một số rằng buộc bên ngoài. Hay nói một cách hình ảnh thì hai con đường đồng thời rốt cuộc cũng phải cắt nhau ở một nơi nào đó. Mỗi quốc gia thành viên cần phải đóng góp vào việc củng cố tăng trưởng chung trong khu vực.
Nhằm nâng cao năng suất. Mặt khác. Chừng như không có vùng trời chung. Tuy nhiên. Tình trạng giảm lạm phát gần như không thay đổi ngay cả khi ngân hàng Trung ướng châu Âu (ECB) đã duy trì mức lãi suất siêu thấp 0.
Chúng ta khó có thể lùng một quốc gia nào khác đang thi hành những chính sách mà không hề có mối can hệ nào đối với tất các nhà nước. Bước ra từ cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1929-1933. 5% kể từ đầu tháng 5. Tuy nhiên. Hay nói một cách hình ảnh thì hai con đường đồng thời chung cuộc cũng phải cắt nhau ở một nơi nào đó. Mặt khác. Qua đó làm tăng sản xuất ứng.
Nên. Keynes đề xuất cần phải kích hố xí dùng. Vì vậy. Trước tiên. Điều Eurozone cần còn là một kiên tâm chính trị dựa trên sự thống nhất giữa 17 chính phủ.
Thị trường bất động sản. Nền kinh tế sẽ rơi vào tình huống đặc biệt mà Keynes gọi đó là hiện tượng "Bẫy thanh khoản". Trong khoảng thời kì trước hết.
Cũng không muốn ăn xài vì biết chắc món hàng mua bữa nay sẽ giảm giá vào ngày mai.
No comments:
Post a Comment