Cảnh trong phimdù rằng con đã ra đời Hiện tượng này không hẳn là không có cơ sở khách quan. Trong hơn 100 năm hình thành và phát triển của điện ảnh thế giới, hơn quờ quạng các đạo diễn khác, Ozu có triết lý và phong cách biệt lập. Để nói về sự dị biệt của Ozu ta phải đọc nhiều sách và nghiên cứu phim ông thật kĩ càng (một phần vì sao nhiều viện sĩ thích viết về Ozu), nhưng cũng vì lẽ đó mà khi tiếp cận phim của ông, người xem thường không biết phải trông chờ điều gì và hay thấy hụt hẫng. Các tác phẩm nổi tiếng của ông thường xoay quanh đề tài gia đình, gồm các hình ảnh mộc mạc của đời thường và có nhịp điệu từ tốn. Nếu so với các phim hành động samurai của Akira Kurosawa thì phim Ozu thật giản đơn và chậm chạp, tới độ nhiều nhà phê bình đã từng gọi ông là “vị thiền sư” hay “bậc thầy tu tịnh” của điện ảnh, nhưng những bình phẩm chưa thật chuẩn xác nếu ta coi xét kĩ lưỡng phim của ông. Nhiều người khi tiếp cận và đánh giá phim Ozu thường tuyển lựa những bộ phim ra đời vào khoảng giữa sự nghiệp của ông làCâu Chuyện Tokyo(1953),Vãn Xuân(Late Spring, 1949) đều là những kiệt tác điện ảnh nhưng không phản ảnh toàn cảnh 45 năm hoạt động điện ảnh của ông. Ozu bắt đầu làm phim vào năm 1923 khi được tuyển làm trợ lý quay phim cho hãng Shochiku và vào năm 1926 được bổ nhiệm lên làm trợ lý đạo diễn. Một năm sau, ông đạo diễn bộ phim đầu tayLưỡi Gươm Sám Hối (Blade of Penitence). Vì ông khởi nghiệp khá sớm, từ thời gian phim câm ở Nhật Bản, Ozu có tận 35 phim câm trong số hơn 50 phim ông đạo diễn. Trong số đó, sau các biến động lịch sử như thế chiến thứ 2, chỉ còn một đôi phim chưa bị mất và được phát hành rộng rãi, điển hình làHợp Xướng Tokyo(Tokyo Chorus) - 1931,Mặc dù con đã ra đời(I was born, but) -1932, dịch theo tựa đề Nhật Bản là: “Một cuốn truyện tranh cho người lớn: Con đã ra đời, nhưng...”),Thoảng qua tương tư(Passing Fancy) - 1933,Cô gái trong lưới luật(Dragnet Girl) - 1933,Câu chuyện phù thảo (Story of Floating Weeds) - 1934),Quán trọ ở Tokyo (An Inn in Tokyo) - 1935. Khi nhắc tới phong cách phim của mình, Ozu nói: “Trong đầu, tôi đã lên hệ thống làm phim của chính mình mà không bắt chước các đạo diễn khác.” Mặc dù ai khi xem Ozu, đặc biệt là những phim đen trắng và phim màu ở đoạn sau sự nghiệp ông, đều công nhận rằng ông khác người, kể cả khi so sánh với những đạo diễn phim nghệ thuật táo bạo khác, Ozu không hẳn là hoàn toàn không học hỏi các đạo diễn khác. Thời trẻ, Ozu đam mê điện ảnh câm của Mỹ, luôn bỏ học để đi xem phim và thậm chí còn một lần khoe là đi thi đầu vào trung học ở Kobe cốt chỉ để được dự buổi chiếu củaNgười tù Zenda(The Prisoner of Zenda) của đạo diễn Hugh Ford và Edwin S.Porter. Niềm mê say ấy tất nhiên góp phần hình thành tư duy điện ảnh của ông. Nếu xem những phim câm của Ozu, ta sẽ thấy sự ảnh hưởng của những bậc thầy phim câm như Charlie Chaplin, Ernst Lubitsch, Harold Lloyd... Chẳng hạn, thời đó Ozu làm một lượng lớn phim hài với những trò đùa hình thể- đây là có nhẽ là điểm dễ nhận ra nhất trong phim Chaplin. Xem phim câm Ozu, ta cũng có thể theo dõi quá trình ông hình thành phong cách độc đáo của mình. Ngay từ lúc đó, phim của ông có sự dị biệt so với các đạo diễn hiện đại: dù rằng là phim câm nhưng những phim này trọng đối thoại hơn hẳn các phim câm của Mỹ. Ông cũng đã bắt đầu làm những bộ phim về gia đình, về quan hệ giữa cha, mẹ và con, giữa các thế hệ người Nhật, nhưHợp xướng Tokyo, mặc dầu con đã ra đời”, hay Câu chuyện Phù Thảo. Tuy nhiên cũng có một số trường hợp đặc biệt nhưCô gái trong lưới luật- một bộ phim gangster đậm ảnh hưởng của Hollywood thời đó. Những bộ phim này cũng tụ tập vào con người thời đại khủng hoảng những năm 30, mối lo phấp phỏng về miếng cơm manh áo (như trongHợp xướng Tokyo), đời sống của người làm mướn sở (mặc dầu con đã ra đời), học trò nghèo khó, tội phạm vặt cũng như từng lớp tư sản. Đạo diễn Ozu Yasujiro Khác với Hollywood, ở Nhật Bản phim câm vẫn được sinh sản nhiều vào thập niên 30, Ozu lúc ấy có phần quan ngại việc chuyển sang làm phim có tiếng vì biết rằng sẽ phải thay đổi nhiều kĩ thuật làm phim (ngay như việc không cần bảng nội đề nữa cũng đổi thay tuốt tuột quá trình dựng phim). Ông còn từng khẳng định mong muốn quay cảnh fade-out rút cục của điện ảnh câm. Thế nhưng vào năm 1936, Ozu cũng giả đò phim có tiếng đầu tay -Người con trai độc nhất vô nhị(The Only Son). Những năm sau đó, Nhật Bản quân đội hóa sơn hà, biến động chính trị thụ động và bắt đầu công cuộc mở mang bờ cõi trước khi dự vào Thế Chiến Thứ 2. Ozu cũng bị cuốn vào dòng xoáy lịch sử. Năm 37, ông đi chiến đấu ở Nam Kinh và sau đó vào năm 39 viết kịch bản cho bộ phimAnh ấy đi Nam Kinh (He's going to Nanking), sau này đổi thànhHương vị cơm trà(The Flavor of Green Tea over Rice) xoay quanh bữa cơm giữa hai vợ chồng sau khi người chồng nhận được lệnh nhập ngũ. Bộ phim không được ban kiểm duyệt nghiêm ngặt thông qua. Giống như hàng ngàn người Nhật khác, mùa thu năm 45, ông làm tù binh chiến tranh và những năm sau đó sống dưới ở thời kỳ Mỹ đóng quân ở Nhật Bản. Poster phimMột chiều thu Sau khi chiến tranh kết thúc, phim Ozu có vẻ ít đề cập vấn đề từng lớp và biến động lịch sử. Thế nhưng nếu để ý, ta sẽ thấy hơi hướng thời đại trong không gian khép kín của những bộ phim này. Như trongVãn Xuân,các nhân vật có thoáng qua nhắc tới việc nhân vật chính Noriko đã từng ngã bệnh vì bị bắt cần lao sau chiến tranh. Đây cũng là bộ phim trước nhất sau chiến tranh của Ozu dành được thành công. Trước đó, các phimGhi chép của một quý ông thuê nhà(The Record of A Tenement Gentleman) vàGà mái trong gió (A Hen in The Wind) không được đánh giá cao.Vãn Xuânlà bộ phim trước tiên trong bộ ba phim Noriko, trướcSớm hạ (Early Summer,tựa đề Nhật có nghĩa là việc gặt lúa mà thường xảy ra vào đầu mùa hè) vàCâu chuyện Tokyo. Trong cả ba phim, diễn viên thân thuộc Hara Setsuko đều thủ vai nữ chính tên Noriko (tuy nhiên ba nhân vật này là ba người khác nhau). Bộ ba phim này đều là phim đen trắng nổi tiếng, giống phần nhiều phim tiếng của Ozu, có phần chậm chạp hơn, gồm hầu hết là cảnh tĩnh (tuy nhiênSớm hạcũng có một đôi cảnh động ngoại lệ); những nét thẩm mỹ tốp trong những phim trước như các hình ảnh tĩnh vật (biển hiệu, ấm trà, quạt máy, mâm cơm gia đình, v.V) tái hiện nhiều và trổi hơn. Đoạn sau sự nghiệp, phim Ozu không rườm rà cốt chuyện, giản lược tính kịch, và tụ họp vào những giây phút giản dị như buổi nhậu của những người cùng cơ quan hay cuộc nói chuyện giữa láng giềng hàng xóm, thế nên nhìn chung phá hoang tính nhân chân thật và gần gũi với đời thường khán giả hơn hẳn các phim thường ngày. Từ đây cho đến cuối sự nghiệp, Ozu giao hội tinh sự nghiệp của mình bằng cách làm nhiều phim có chủ đề và cảnh tượng rưa rứa nhau: người cha, người mẹ, con cháu, hàng xóm, vợ chồng cố gắng hòa giải giá trị truyền thống và đời sống đương đại. Đôi lần ông còn trở lại các chủ đề đã xuất hiện ở phim trước chiến tranh nhưng theo một cách tinh tế hơn, trên một góc độ mới:Tảo xuân (Early Spring, 1956) đề cập đến cuộc sống người làm công sở,Hoàng hôn Tokyo (Tokyo Twilight, 1957) có những cảnh của sòng mạc chược ở khu phố nghèo. Năm 1952, ông quayHương vị cơm tràsau khi chỉnh sửa đôi chỗ kịch bản. Thậm chí ông còn làm lại phim cũ của mình (remake):Chào buổi sáng(Ohayo, 1959) có nhiều điểm tương đồng vớidù rằng con đã ra đời,Phù Thảo(Floating Weeds, 1959) là phim màu gần sát với phim câmCâu chuyện Phù Thảo(1934), những phim nhưThu muộn (Late Autumn, dịch nguyên tựa đề Nhật ra là “Một ngày thu an hòa”, 1960),Một chiều thu (An Autumn Afternoon, dịch nguyên tựa đề ra là “Hương vị cá dao”, 1962, phim rốt cuộc của Ozu) có cốt chuyệt hệt nhưVãn Xuân, chỉ thay đổi một tí tình tiết và diễn viên. Khán giả thường coi Ozu không đa dạng vì cứ làm đi làm lại một số chủ đề. Để đáp lại chỉ trích này, Ozu ví mình với một người chuyên làm đậu phụ: “Ta có thể đi ăn nhiều loại thức ăn đến từ nhiều nơi trên thế giới trong một nhà hàng Nhật ở cửa tiệm bách hóa, thế nhưng sự quá đa dạng này lại làm giảm chất lượng và hương vị đồ ăn. Làm phim cũng hao hao như vậy. Mặc dầu phim tôi có về na ná như nhau, tôi luôn nắm tả những điều mới, và tôi có quan hoài tới từng bộ phim mình làm. Tôi giống như một họa sĩ vẽ đi vẽ lại một bông hồng.” Quả nhiên, phong cách của Ozu ngày càng tinh xảo: dù dựa trên kịch bản về những câu chuyện thường ngày và thậm chí là vặt vãnh, phim ông liên miên chất thơ, nỗi buồn man mác của con người Nhật vừa muốn giữ lấy truyền thống dân tộc vừa phải sống trong thời đại thay đổi, những gia đình phải giải quyết mâu thuẫn đời và hàn gắn vết thương tinh thần sau chiến tranh, chu kỳ cuộc thế như bốn mùa của năm hay ba buổi một ngày. Ozu với Hara Setsuko trên trường quay phimVạn Xuân Nhiều người lại nghĩ rằng Ozu và các nhân vật của ông ủng hộ truyền thống và cự lại đổi mới. Tuy nhiên việc coi Ozu như một đạo diễn tôn thờ truyền thống Nhật chỉ là một cách nhìn: có nhà phê bình đã nhận xét rằng phim Ozu phê phán truyền thông lỗi thời chứ không ủng hộ chúng. Do phim Ozu thường không tỏ thái độ đen trắng về những chủ đề này, khán giả được tự hiểu theo ý mình và thường có những nghĩ suy khác nhau. Việc cảm nhận phim Ozu càng khích: ở độ chín của nghề, phim ông đề đạt tâm tư người xem như một mặt gương hoặc mặt hồ gợn sóng. Số bậc thầy trong điện ảnh thế giới đến gần được với Ozu ở điểm này đếm có nhẽ không quá một bàn tay. Như vậy, trong cả chặng đường làm phim của phim của mình, dù là phim câm hay phim tiếng, phim đen trắng hay phim màu, trước chiến tranh hay sau, Ozu đều để lại những tác phẩm độc đáo và quan yếu cho điện ảnh. Ông là nguồn cảm hứng cho nhiều đạo diễn Nhật thế hệ sau, như những đạo diễn thập niên 60s điển hình như Imamura Shohei hay Yoshida Yoshishige. Họ vừa phản ứng lại những nguyên lý của ông vừa học từ ông. Đạo diễn Kurosawa Kiyoshi đã nhận xét rằng khi làm phim về gia đình thì đạo diễn Nhật Bản khó có thể tránh bắt chước Ozu. Tất nhiên, Ozu có tầm ảnh hưởng trên toàn thế giới. Đạo diễn người Đức, tác giả của những bộ phim tiêu biểu:Paris, Texas,Wings of Desire, Pinađã nhận xét về Ozu thế này: “Không gì dễ bằng việc móc túi từ chính kẻ cắp, nhưng Ozu không phải là một kẻ cắp. Bạn có thể học được từ ông chứ không ăn trộm phong cách của ông được.” Ozu Yasujiro sinh ngày 12 tháng 12 năm 1903, mất ngày 12 tháng 12 năm 1963. Năm 1923, ông được tuyển làm trợ lý quay phim cho hãng phim Shochiku. Năm 1926, ông được thăng chức lên làm trợ lý đạo diễn. Năm 1927, ông giả vờ phim đầu tayLưỡi gươm Sám Hối(Blade of Penitence). Ca Thùy |
Friday, July 26, 2013
Đạo diễn Ozu Yasujiro và những câu chuyện của nước Nhật
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment