Sunday, July 28, 2013

Cần có cái nhìn khách quan về tình hình tôn giáo ở Việt Nam

QĐND - Ngay sau khi giành được độc lập (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, vấn đề có tính nguyên tắc trong chính sách đạo của ViệtNam là: “Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”. Tư tưởng ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng và Nhà nước Việt Nam biểu thị trong quá trình lãnh đạo cách mệnh. Quan hoài đến công tác đạo, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của quần chúng nói chung và đời sống của đồng bào các đạo nói riêng là một trong những nguyên tắc lãnh đạo, quản lý từng lớp và điều hành đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam năm 1946 đã khẳng định quyền của người dân Việt Nam: “Mọi công dân Việt có quyền tự do tín ngưỡng” (Chương II, mục B). Điều 80 Hiến pháp 1980 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một đạo nào. Không ai được lợi dụng đạo để làm trái pháp luật và chính sách của quốc gia”. Điều 70 của Hiến pháp nước Cộng hòa từng lớp chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 được bổ sung rõ hơn: “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, đạo, theo hoặc không theo tôn giáo nào. Các đạo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ phụng của các tín ngưỡng, đạo được luật pháp bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, đạo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái luật pháp và chính sách của Nhà nước”.

Tự do tín ngưỡng, đạo là một quyền nhân thân cơ bản của công dân cũng được đề cập trong Bộ luật Dân sự, được bảo vệ bằng luật pháp và được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật ngày một ở chừng độ cao hơn, hoàn thiện hơn. Sau 5 năm thực hành Nghị định số 26/1999/NĐ-CP, ngày 19-4-1999 về các hoạt động đạo đã được thay thế bằng Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo do Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI duyệt ngày 18-6-2004 và Chủ tịch nước ký Lệnh công bố ngày 29-6-2004. Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo ra đời là một minh chứng khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là quý trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thực tiễn, những chủ trương, chính sách tín ngưỡng, đạo không phải chỉ được khẳng định ở Hiến pháp, pháp luật hay trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng mà được trình bày sinh động trong cuộc sống hằng ngày.

Các số liệu được đưa ra tại cuộc tọa đàm về tự do đạo được Đại sứ quán ViệtNam tại Mỹ tổ chức ngày 20-6-2013 ở Oa-sinh-tơn cho thấy, nhận thức và hoạt động đạo tại Việt Nam đã có sự đổi thay rất lớn trong vòng 20 năm qua. Đời sống tôn giáo ở Việt Nam chưa bao giờ sôi động như hiện giờ và đang phát triển theo chiều hướng hăng hái, tạo ra sự ổn định trong từng lớp. Số người theo đạo đã tăng từ 22 triệu lên 25 triệu người trong vòng 2 năm, trong khi số tôn giáo được xác nhận đã tăng từ 6 lên 13 trong vòng 8 năm. Rất nhiều tôn giáo có đại diện trong chiến trường giang san và Quốc hội, góp phần củng cố chính sách đại đoàn kết dân tộc.

Cũng tại cuộc tọa đàm này, tấn sĩ Cơ-rít Xây-plơ, Chủ tịch Viện Can dự toàn cầu (IGE), một tổ chức phi chính phủ Mỹ đang hoạt động tại Việt Nam đã đánh giá cao những tiến triển về tự do tôn giáo tại Việt Nam: “Tại khu vực Tây Bắc, đã có hơn 300 nhà thờ được đăng ký và con số này tại Tây Nguyên là hơn 2000. Ngay trong tuần này, một chủng viện Tin lành đã lần trước hết được đăng ký tại ViệtNam. Lần trước hết kể từ năm 1975, Chính phủ Việt Nam sẽ tài trợ 150.000USD cho công tác nghiên cứu về vấn đề tôn giáo và pháp quyền. Chúng tôi đồng hành với những gì Chính phủ và dân chúng Việt Nam đang thực hành. Nếu không có những quyết định hăng hái của Việt Nam thì chúng tôi sẽ chẳng thể hoạt động tại đây”.

Theo số liệu của Ban tôn giáo Chính phủ (năm 2011), Việt Nam có hơn 25 triệu tín đồ (chiếm hơn 1/4 dân số), trong đó Phật giáo khoảng 10 triệu người, đạo thiên chúa 6,1 triệu, Cao đài 2,4 triệu, Hòa hảo 1,2 triệu, Tin lành 1,5 triệu và Hồi giáo khoảng 100.000. Nếu kể các hành vi thờ phụng tiên sư, thành hoàng, vua Hùng… thì hầu hết người Việt có tâm linh đạo. Song điều quan trọng là, mọi sinh hoạt đạo ở ViệtNam đều diễn ra thông thường, không gặp bất cứ sự cản trở nào. Những ngày lễ của các đạo được tổ chức trọng thể theo đúng nghi tiết tôn giáo, thu hút sự tham dự đông đảo của các giáo đồ với tinh thần nô nức, yên tâm và tin cậy vào chính sách tôn giáo và pháp luật của Nhà nước Việt Nam, song song đảm bảo thứ tự an toàn tầng lớp.

Quyền tự do tín ngưỡng, đạo là một trong những quyền cơ bản của con người, được ghi nhận tại Điều 18 Tuyên ngôn nhân quyền toàn thế giới năm 1948 và được phát triển đầy đủ hơn trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của liên hiệp quốc. Điều 18, khoản 3 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị nói về quyền tự do tôn giáo đã xác định: “Quyền tự do phân bua đạo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi luật pháp và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức từng lớp, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do căn bản của người khác”. Như vậy, theo quan điểm của liên hiệp quốc và cộng đồng quốc tế, dù rằng là một quyền cơ bản của con người, nhưng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là tuyệt đối, mà là một quyền có giới hạn. Sự giới hạn đó là cần thiết nếu việc thực hiện quyền này xâm hại tới an ninh quốc gia, trật tự xã hội, sức khỏe cộng đồng hoặc quyền và tự do cơ bản của người khác. Nói cách khác, ở hết thảy các nước, các loại hình tổ chức đạo đều được tự do hoạt động nhưng phải trong giới hạn của Hiến pháp và luật pháp. Mọi hành vi hoạt động tôn giáo gây hại đến an ninh nhà nước, trật tự, an toàn tầng lớp, vi phạm đạo đức và các quyền của người khác… đều bị cấm và nghiêm trị theo pháp luật. Vì thế, những kẻ lợi dụng tôn giáo để trục lợi cá nhân, thực hiện những hành động chống chính quyền, gây mất ổn định thứ tự tầng lớp thì phải bị xử lý thỏa đáng.

Chúng ta cũng chính trực thừa nhận rằng, trong những năm qua, hoạt động tôn giáo và công tác quản lý quốc gia về tôn giáo vẫn còn một số khuyết điểm ở một đôi địa phương, trong một số vụ việc cụ thể. Thế nhưng, về cơ bản, lãnh đạo các chức sắc tôn giáo tại ViệtNam và đông đảo những người có lương tri trên thế giới đến thăm Việt Nam đều nhận những thành tựu to lớn của nước ta trên lĩnh vực tôn giáo.

Có thể kể đến đánh giá của Thượng nghị viên Mỹ Gim-oép-bơ (Jim Webb) sau chuyến thăm Việt Nam năm 2009 rằng: Cho dù vẫn còn những ý kiến cá nhân về một đôi vụ việc cụ thể, song chẳng thể phủ nhận những tiến bộ về tự do tôn giáo tại Việt Nam, nhất là từ năm 1991 đến nay. Thứ trưởng Ngoại giao Tòa thánh Va-ti-căng Ba-lê-xtre-rô trong chuyến thăm ViệtNam (tháng 2-2012) đã ghi nhận: Chính phủ Việt Nam đang ráng thực hành nhất quán và không ngừng hoàn thiện chính sách coi trọng và bảo đảm tự do tôn giáo của người dân. Ngay cả thưa tình hình tự do đạo quốc tế năm 2012 của Bộ Ngoại giao Mỹ (ban bố ngày 20-5-2013), phần đánh giá về Việt Nam cũng phải ghi nhận: “Đã có những dấu hiệu cải thiện, như cấp phép đăng ký cho các giáo đoàn mới, cho phép mở mang các hoạt động từ thiện và cho phép tổ chức các buổi lễ đạo quy mô lớn với trên 100.000 người tham dự”...

Cho nên, có thể nói việc Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ đã duyệt y cái gọi là “Dự luật nhân quyền Việt Nam” (HR 1897) ngày 28-6-2013, do hai nghị viên Đảng Cộng hòa Ét Roi-xơ (Ed Royce) và Cơ-rít Xmit (Chris Smith) đề xướng là một việc làm đáng tiếc, tạo ra sự ảnh hưởng không tốt cho quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ.

Đại tá, TS VŨ HỒNG KHANH


No comments:

Post a Comment