Thursday, September 19, 2013

Khống chế hạn mức tín dụng: Nên hay những không?.

Do vậy, cứ để đánh giá, xếp loại, phân hạng các tổ chức tín dụng để từ đó phân bổ HMTD còn nhiều vấn đề, chưa bảo đảm chuẩn xác, công khai, sáng tỏ

Khống chế hạn mức tín dụng: Nên hay không?

Về nhược điểm  :   Thứ nhất  , HMTD có thể làm cho lãi suất tăng lên, do cung vốn bị giới hạn, không thỏa mãn nhu cầu vốn của nền kinh tế.

Thứ hai,     Điều chỉnh, hạn chế tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn tăng trưởng huy động vốn, góp phần cải thiện tính thanh khoản của từng Ngân hàng và cả hệ thống, giảm áp lực lạm phát.

Nguyên nhân là do tổng cầu của nền kinh tế đang trong suy giảm, nền kinh tế không kết nạp được tín dụng. Lúc này, Ngân hàng Trung ương phải theo dõi hoạt động cho vay của các NHTM, nếu NHTM cho vay vượt quá HMTD quy định sẽ bị xử phạt. Nguồn: internet  Một vài nguyên lý căn bản của hạn mức tín dụng  HMTD là một trong những dụng cụ can thiệp một cách trực tiếp mang tính hành chính của nhà băng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của hệ thống tổ chức tín dụng cung ứng cho nền kinh tế, bảo đảm mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán theo đích đề ra trong điều hành chính sách tiền tệ hàng năm.

Sang năm 2012, mục tiêu tăng trưởng tín dụng đặt ra là 15-17%. Sau đó, việc áp dụng HMTD được mở rộng sang NHTM cổ phần và các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài lớn nhằm hạn chế tốc độ cho vay, để kiểm soát lạm phát. Các Ngân hàng đang hội tụ vào việc tái cơ cấu hệ thống để đảm bảo phát triển bền vững.

Do đó, đến năm 1998, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định không dùng HMTD như là một phương tiện trực tính trong điều hành chính sách tiền tệ, mà chỉ dùng khi cần hạn chế sự gia tăng tín dụng mau chóng, dẫn tới nguy cơ lạm phát cao.

Thực tế tại Việt Nam  Nhìn lại lịch sử ngành Ngân hàng Việt Nam có thể thấy, từ năm 1994, Ngân hàng Nhà nước thực hiện HMTD cho 4 NHTM quốc doanh.

Bởi thế, cơ chế tác động của nó mang tính áp đặt ở dạng chỉ tiêu kế hoạch hàng năm không được vượt quá đối với hệ thống NHTM. Bên cạnh HMTD nói chung, trong năm 2011, Ngân hàng Nhà nước còn quy định HMTD đối với lĩnh vực phi sản xuất, như: bất động sản, chứng khoán, vay tiêu dùng khác.

Nhìn lại chính sách tiền tệ (2011-2012), gợi ý chính sách tiền tệ những năm tiếp theo, tham luận tại Hội thảo Nhìn lại chính sách tài chính tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, đảm bảo an toàn hệ thống tài chính, ngày 26/12/2012, Hà Nội   3.

Do tín dụng bị áp mức trần, nên các NHTM thường chọn lựa khách hàng lớn để cho vay, sau đó mới đến những đối tượng trên, mà hiệu quả dùng vốn nhiều khi ở các món tín dụng nhỏ lại tỏ ra hiệu quả hơn các món lớn. HMTD là mức dư nợ tối đa mà nhà băng Trung ương buộc các NHTM trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.

Đến ngày 31/12/2011 còn tối đa 16%. Qua việc sử dụng công cụ HMTD, nhà băng Trung ương điều chỉnh khả năng tạo tiền của các NHTM hiệp với trình độ phát triển của nền kinh tế, tránh tình trạng tổng khối lượng cung tiền tăng quá mức trong lưu thông.

Cụ thể, trong cả năm 2011, dư nợ tín dụng tăng trưởng 14%/năm, bằng 70% đích đề ra và giảm (-56%) so với mức tăng trưởng của 2010 (31,19%).

Kết quả là năm 2012, dư nợ cho vay đối với nền kinh tế chỉ tăng được 8,91%, thấp hơn rất nhiều so với kế hoạch đề ra.

Dụng cụ hạn mức tín dụng đối với các Ngân hàng thương nghiệp sau nhiều năm bị Ngân hàng quốc gia dỡ bỏ. Năm 2013, mặc dầu lạm phát đã được kiểm soát khá ổn định, nhưng Ngân hàng quốc gia vẫn tiếp duy trì sử dụng dụng cụ HMTD.

Phân chia hạn mức tăng trưởng tín dụng: có thừa?, Đầu tư Chứng khoán online, truy cập từ http://tinnhanhchungkhoan. Kết quả rút cuộc là làm cho chính sách tiền tệ dựa trên HMTD mất đi hiệu lực, do một số lượng vốn tín dụng được lưu thông trong nền kinh tế không theo hạn mức đó và không kiểm soát được. Sau hơn 13 năm được dỡ bỏ, đến năm 2011, dụng cụ HMTD lại được Ngân hàng quốc gia dùng trong điều hành.

Vn. Trong giai đoạn nền kinh tế đang khó khăn, suy kiệt tín dụng và giảm tổng cầu, thì công cụ này không những không phát huy được tác dụng với nhiều tổ chức tín dụng, mà ngược lại còn kìm hãm tăng trưởng.

Về cơ chế tác động, HMTD được dùng để khống chế tổng dư nợ tín dụng, qua đó khống chế tổng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế.

Do những NHTM có khả năng huy động nhiều vốn, lại bị hạn chế cho vay, trong khi một số Ngân hàng không có khả năng huy động vốn lại không dùng hết được hạn mức của mình.

Có thể thấy, với cơ chế hoạt động như vậy, HMTD có những ưu và nhược điểm sau:    Về ưu điểm    : HMTD là một dụng cụ trực tiếp điều tiết lượng tiền trong lưu thông, nhà băng Trung ương có thể kiểm soát khá chặt chịa tổng lượng tiền cung ứng.

Nên "gỡ bỏ” hạn mức tín dụng?  Nhìn lại thực tiễn ứng dụng HMTD có thể thấy, phương tiện này đã phát huy một số tác dụng trong việc xúc tiến các tổ chức tín dụng đổi mới và tái cơ cấu hoạt động trên các mặt:    Thứ nhất  ,   xúc tiến các NHTM phấn đấu nâng cao chất lượng, hiệu quả và các chỉ số an toàn hoạt động để được xếp hạng tín nhiệm cao và có được hạn mức tăng trưởng cao.

Do vậy, theo chúng tôi, nhà băng Nhà nước nên dỡ bỏ HMTD từ năm 2014. Cơ quan quản lý Nhà nước nên để họ tự cân đối trên cơ sở khả năng huy động vốn, xử lý nợ xấu, đích quản trị Ngân hàng…    Chưa xây dựng được bộ tiêu chí phân loại các    tổ chức tín dụng    và phương pháp tính hạnh các tiêu chí phân loại để làm căn cư phân bổ    HMTD    cho từng    nhà băng.

Com. Năm 2012, Ngân hàng quốc gia đã phân loại các nhóm tổ chức tín dụng làm cứ phân hạng mức tín dụng, nhưng cơ quan này lại không công khai các tiêu chí xếp hạng, phương pháp tính và bảng xếp hạng.

Cụ thể là:    thời khắc ứng dụng công cụ HMTD chưa thích hợp. Kết quả thực hành đến hết năm 2011, dư nợ tín dụng cả nền kinh tế chỉ đạt 12%, thấp hơn nhiều kế hoạch đề ra, HMTD đối với lĩnh vực phi sinh sản cũng bảo đảm thực hành nghiêm túc.

Trong điều kiện thị trường thứ cấp chưa phát triển, nhà băng Nhà nước chưa thể sử dụng thị trường mở để kiểm soát sự gia tăng tổng phương tiện tính sổ, thì việc sử dụng công cụ này là cần thiết. Thứ ba,     Tác động mạnh mẽ và có hiệu quả đến đích tái cơ cấu, sáp nhập các NHTM yếu kém, tăng vốn chủ sở hữu, nâng cao năng lực cạnh tranh. Thứ ba  , Khi thị trường tiền tệ hoạt động đúng theo quy luật, thì vô hình trung, HMTD lại kìm hãm sự phát triển của các Ngân hàng tốt, làm giảm tính cạnh tranh giữa các NHTM.

Thay vào đó, cơ quan này cần có biện pháp tăng cường giám sát chặt việc đảm bảo các tỷ lệ an toàn tín dụng, chấp hành các quy định về cho vay của tổ chức tín dụng, bảo đảm cung ứng vốn tín dụng thông hiểu, hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế.

Trong điều kiện ở Việt Nam hiện, các tiêu chí và phương pháp đánh giá, xếp hạng tín nhiệm các tổ chức tín dụng còn rất nhiều bất cập, chất lượng xếp hạng tín nhiệm của một đôi tổ chức công bố chưa được thị trường công nhận.

Công cụ này thực thụ phát huy hiệu quả khi tổng công cụ tính sổ trong nền kinh tế tăng cao và các phương tiện gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu lực. Điều hiểm hơn nữa là chính việc kìm hãm này sẽ làm nảy các tổ chức tài chính mới, nằm ngoài phạm vi kiểm soát của nhà băng Trung ương, thay thế nhà băng thực hành nghiệp vụ cho vay. Cùng với đó là những nhược điểm, hạn chế của phương tiện này cho thấy, không hợp với tiến trình đổi mới điều hành chính sách kinh tế vĩ mô nói chung, vận hành nền kinh tế thị trường nói riêng.

Nhìn chung, thực tiễn gần 3 năm vận dụng trở lại công cụ HMTD đều không đạt được mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, việc dùng phương tiện kiểm soát HMTD của nhà băng quốc gia trong thời gian qua cũng đã biểu đạt một số hạn chết, đặt ra câu hỏi nên hay không nên tiếp kiến giữ phương tiện này trong điều hành chính sách tiền tệ.

Tại thời điểm đầu năm 2011, có 18 NHTM cổ phần có tỷ trọng cho vay phi sinh sản dưới 25%, và 24 NHTM cổ phần có tỷ trọng trên 26% (trong đó: NHTM có tỷ trọng cho vay phi sinh sản thấp nhất là 8,5%/tổng dư nợ, cao nhất là 59%).

Sau đó, cơ quan này đã điều chỉnh tăng chỉ tiêu cho 36 tổ chức tín dụng có điều kiện thực tại mở mang cho vay an toàn; Đồng thời, vẫn khống chế HMTD trong lĩnh vực phi sinh sản là 16%.

Có thể thấy rằng, việc cơ quan quản lý Nhà nước kiên quyết giảm tốc độ và tỷ trọng tín dụng phi sản xuất là đúng! Bởi, hoạt động cho vay khu vực này lại chủ yếu nằm ở các NHTM trong nước.

Nên chi, việc phân loại này không có sức thuyết phục đối với các tổ chức tín dụng. Thứ tư,   HMTD cũng gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ sản xuất kinh dinh cá thể, hộ nông dân.

Html  Theo kinhtevadubao. Năm 2013, cầu tín dụng dự báo không có nhiều đột biến, do nền kinh tế vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và hai nút thắt lớn nhất là nợ xấu, hàng tồn kho vẫn chưa được xử lý dứt điểm, nên các nhà băng cũng không mạo hiểm chạy đua tăng trưởng tín dụng. Đến hết năm 2012, theo nhà băng Nhà nước, tổng dụng cụ thanh toán tăng suýt soát 22% so với cuối năm 2011; tăng trưởng tín dụng đạt ngót nghét 10%, trong đó tín dụng VND tăng 11,51%, tín dụng ngoại tệ giảm 1,56% so với cuối năm 2011.

Theo Chỉ thị 01/CT-NHNN, ngày 31/01/2013  về  tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động nhà băng an toàn, hiệu quả năm 2013, thì mức tăng trưởng tín dụng không quá 12% so với năm 2012. Đồng thời, HMTD cũng không được điều chỉnh một cách linh hoạt theo tín hiệu thị trường, đã làm ảnh hưởng đến việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế.

Thế nhưng, thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho biết, đến hết tháng 7/2013, tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế mới chỉ tăng có 5,02%, dự báo đến hết năm sẽ khó đạt chỉ tiêu đề ra. Trong năm này, từ tháng 3-7/2012, CPI giảm liên tiếp xuống mức theo các tháng (0,16; 0,05; 0,18; -0,26; -0,29 ), CPI cả năm 2012 tăng rất thấp, tăng 6,81%, thấp hơn mức 7% do Quốc hội đặt ra. Do những hạn chế rất căn bản nêu trên, nên việc kéo dài thời gian ứng dụng công cụ này có thể làm sai lệch sự phát triển của thị trường tiền tệ, tín dụng và ảnh hưởng thụ động tới cả nền kinh tế.

Chính Vì vậy, phương tiện hạn HMTD trở nên vô tác dụng. Tài liệu tham khảo:         1. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, do bản tính của HMTD là công cụ điều hành mang tính hành chính, can thiệp trực tiếp và chỉ được phân bổ đối với một số NHTM, nên phần nào hạn chế tính công bằng trong cạnh tranh.

Lạm phát đích và lưu ý đối với phạm vi chính sách tiền tệ ở Việt   N  am  , Nxb Tri thức, Hà Nội   2. Hồng Dung (2013). Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế năm 2012 cũng tăng thấp, khoảng 6%, chỉ đạt hơn 30% so với đích. Cụ thể: nhóm 1 tối đa là 17%; nhóm 2 tối đa là 15%; nhóm 3 tối đa là 8% và nhóm 4: 0% (không được tăng trưởng tín dụng).

Rút kinh nghiệm năm 2011, ngay từ đầu năm 2012, tại Chỉ thị số 01/2012/CT-NHNN  ,  ngày 13/02/2012 về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và bảo đảm hoạt động Ngân hàng an toàn, hiệu quả, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã giao chỉ tiêu kế hoạch tăng trưởng tín dụng cho 4 nhóm NHTM có phân biệt dựa trên chất lượng, trực tiếp là tỷ lệ nợ xấu của từng Ngân hàng.

Cụ thể, theo Chỉ thị 01/CT-NHNN, ngày 01/3/2011 về thực hiện giải pháp tiền tệ và hoạt động nhà băng, Thống đốc nhà băng Nhà nước đề nghị các NHTM xây dựng kế hoạch tăng trưởng tín dụng cho năm 2011 không được tăng quá 20% dư nợ so với cuối năm 2010 và phải được nhà băng quốc gia duyệt y.

Đào Văn Hùng và cộng sự (2012). Ủy ban Kinh tế Quốc hội và UNDP (2012). Thứ hai,   HMTD có thể làm sai lệch cơ cấu vốn đầu tư của các NHTM, ảnh hưởng đến cơ cấu nền kinh tế. Vn/GL/N/DJBEEI/phan-chia-han-muc-tang-truong-tin-dung:-co-thua.

Vì thế, việc nhà băng Nhà nước giao HMTD cao nhất là 12% đối với hầu hết các NHTM có sức khỏe và tốc độ tín dụng tăng trưởng tốt trong năm 2012, thực sự là không cấp thiết và không đúng thời khắc.

No comments:

Post a Comment